Kinh tế Xây dựng: https://nguoixaydung.com.vn/kinh-te-xay-dung/co-che-dac-thu-xu-ly-kho-khan-trong-dieu-chinh-quy-hoach-662942.html

Cơ chế đặc thù xử lý khó khăn trong điều chỉnh quy hoạch

05:45 | 10/09/2025
(NXD) - Chính phủ vừa ban hành cơ chế đặc thù, tạm thời xử lý khó khăn, vướng mắc về việc điều chỉnh quy hoạch khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.

 

Ảnh minh họa, nguồn: ITN.
 
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 66.2/2025/NQ-CP ngày 28/8/2025, quy định xử lý khó khăn, vướng mắc về việc điều chỉnh quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, trong thời gian chưa ban hành Luật Quy hoạch (sửa đổi).
 
Nghị quyết được kỳ vọng tạo “cầu nối thể chế” để không làm ách tắc triển khai đầu tư, quy hoạch đô thị - xây dựng - hạ tầng tại các địa phương vừa sáp nhập.
 
Bảo đảm đồng bộ – thống nhất – kế thừa 
 
Nghị quyết số 66.2/2025/NQ-CP có 3 nhóm đối tượng điều chỉnh lớn (khoản 1 Điều 2), gồm: (i) quy hoạch cấp quốc gia bị tác động bởi sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh hoặc để thực hiện mục tiêu tăng trưởng 2 con số giai đoạn 2026-2030; (ii) quy hoạch 6 vùng (Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long); (iii) quy hoạch của 34 tỉnh, thành phố sau sáp nhập hoặc để đạt mục tiêu tăng trưởng nói trên.
 
Nguyên tắc điều chỉnh gồm 3 “trục”: đồng bộ – thống nhất – kế thừa, bảo đảm ổn định hệ thống quy hoạch; cho phép lập điều chỉnh đồng thời giữa các tầng quy hoạch; và thẩm định, phê duyệt theo cơ chế của Luật Quy hoạch (sửa đổi) (khoản 2 Điều 2).
 
Đối với lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, nguyên tác này là cơ sở pháp lý quan trọng để duy trì tính liên thông giữa quy hoạch xây dựng/quy hoạch đô thị với quy hoạch sử dụng đất, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật khi địa giới hành chính thay đổi.
 
Đáng chú ý, để giảm tải quy trình thực hiện lập điều chỉnh quy hoạch, Nghị quyết quy định 3 nội dung không phải thực hiện khi điều chỉnh: (i) Không lập/thẩm định/phê duyệt điều chỉnh nhiệm vụ lập quy hoạch (điểm a khoản 3 Điều 2); (ii) Không lập thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) cho lần điều chỉnh này (điểm b khoản 3 Điều 2); (iii) Không thẩm định điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia (điểm c khoản 3 Điều 2).
 
Đây là điểm tác động trực tiếp tới quy trình của lĩnh vực xây dựng – đô thị: các dự án, đồ án quy hoạch xây dựng/đô thị khi phải “khớp lại” theo đơn vị hành chính mới sẽ được giảm đáng kể thời gian chuẩn bị thủ tục, tránh “đi lại từ đầu” đối với các bước đã có kết quả.
 
Cụ thể các mốc thời hạn góp ý
 
Nghị quyết số 66.2/2025/NQ-CP quy định rõ quy trình ở từng tầng quy hoạch và thời hạn phản hồi. Trong đó, đối với quy hoạch tổng thể quốc gia, cơ quan lập tự quyết định nội dung cần điều chỉnh, lập dự toán chi phí, xin ý kiến MTTQ, các Bộ, UBND cấp tỉnh. Thời hạn trả lời là 10 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ (điểm c khoản 1 Điều 4). Sau đó trình Chính phủ thông qua trước khi báo cáo Quốc hội (khoản 1 Điều 4).
 
Đối với quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy trình tương tự, nhưng thời hạn trả lời là 20 ngày cho cơ quan được xin ý kiến.
 
Ngoài ra, mỗi tầng quy hoạch đều có yêu cầu rà soát bảo đảm phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia điều chỉnh trước khi trình thẩm định, phê duyệt.
 
Nghị quyết số 66.2/2025/NQ-CP giao các Bộ liên quan tổ chức lập/điều chỉnh các tầng quy hoạch thuộc thẩm quyền; UBND cấp tỉnh tổ chức lập điều chỉnh quy hoạch tỉnh trên cơ sở các quy hoạch của các tỉnh sau sáp nhập (khoản 3, 4 Điều 5).
 
Đặc biệt, cho phép tiếp tục sử dụng tên địa danh, vị trí, phạm vi địa lý trước sáp nhập kết hợp với tên sau sáp nhập khi thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư cho đến khi quy hoạch được điều chỉnh/thay thế (khoản 5 Điều 5).
 
Đối với địa phương đã sáp nhập, được căn cứ vào các quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030 đã phê duyệt/điều chỉnh để thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các chương trình, dự án đã có trong quy hoạch hoặc phù hợp các quy hoạch tỉnh tương ứng trước khi sáp nhập (khoản 6 Điều 5). Quy định này giúp không đình trệ phê duyệt đầu tư xây dựng – đô thị – hạ tầng sau sáp nhập, đồng thời tạo khoảng chuyển tiếp để cập nhật bản quy hoạch hợp nhất.
 
Có thể thấy, Nghị quyết số 66.2/2025/NQ-CP tạo khung pháp lý tạm thời nhưng đủ mạnh để xử lý nhanh việc điều chỉnh quy hoạch sau sáp nhập đơn vị hành chính và chuyển đổi mô hình chính quyền 2 cấp.
Theo Tạp chí Xây dựng