(NXD) -
Sau bão số 11, Hà Nội và một số tính phía Bắc chìm trong ngập lụt, đặt ra yêu cầu cấp bách chuyển hướng quy hoạch và kiến trúc đô thị thích ứng khí hậu.
Lũ cuồn cuộn chảy qua đập Ba Ba Tắc Cun (Thái Nguyên).
Hoàn lưu bão số 11 vừa qua đã gây mưa đặc biệt lớn cho Hà Nội và một số tỉnh như Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn. Nhiều tuyến phố Hà Nội ngập sâu tới nửa mét, giao thông rối loạn, học sinh phải nghỉ học, còn ở các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc chìm trong biển nước. Hệ thống đê điều chịu áp lực khổng lồ chưa từng có trong hàng chục năm qua, vượt qua cả mực nước lũ từ cơn bão Yagi năm ngoái.
Thống kê sơ bộ của cơ quan chức năng ghi nhận ước tính tổng thiệt hại do mưa lũ sau bão số 11 là hơn 8.720 tỷ đồng, trong đó Thái Nguyên là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất với 4.000 tỷ đồng, tiếp theo là Cao Bằng 2.000 tỷ đồng, Bắc Ninh 1.670 tỷ đồng, Lạng Sơn 1.050 tỷ đồng.
Những con số này cho thấy cực đoan khí hậu đã vượt xa khả năng chịu đựng của hệ thống thoát nước hiện nay.
Phát biểu tại Đại hội Đảng bộ Chính phủ ngày 13/10, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu phải giải quyết dứt điểm những vấn đề tồn đọng kéo dài, trong đó có ngập lụt đô thị – nỗi lo lặp lại mỗi mùa mưa ở nhiều địa phương. “Cứ mỗi trận mưa, mỗi mùa mưa đến, nhân dân rất lo lắng, rất băn khoăn, không chỉ ảnh hưởng đời sống mà còn tác động đến phát triển kinh tế – xã hội”, Tổng Bí thư nói. Ông nhấn mạnh rằng dù bão là không thể tránh được, nhưng phải chủ động ứng phó bằng những giải pháp quy mô, kiên cố thay vì các biện pháp tạm thời như bao cát, bởi "một cơn bão thôi là lại làm lại từ đầu".
Như vậy, rõ ràng thay vì chỉ “bơm và thoát”, bài toán đúng cho Hà Nội và vùng phụ cận, thậm chí là cho tất cả các đô thị có khả năng xảy ra ngập úng, lũ lụt là chuyển tư duy từ chống ngập sang thích ứng chủ động: quy hoạch theo lưu vực, gia tăng sức chứa nước ở ngay trong lòng đô thị, và áp tiêu chuẩn kiến trúc bắt buộc để giảm rủi ro cho từng công trình.
Hình ảnh ngập lụt tại xã Hợp Thịnh, Bắc Ninh, chiều 8.10. Ảnh: Vân Trường
Về quy hoạch tổng thể, Hà Nội đã có quy hoạch thoát nước đến năm 2030, tầm nhìn 2050, trong đó định hướng dành khoảng 4% diện tích cho hồ điều hòa và các vùng trũng chứa nước, kết nối với trạm bơm đầu mối như Yên Sở. Vấn đề cốt lõi không nằm ở thiếu giải pháp mà ở khâu thực thi, bảo vệ và phân bổ mặt nước theo đúng “vùng tiêu”. Muốn giảm ngập úng đô thị, thành phố cần rà soát toàn bộ quỹ hồ, ao, sông mương; chấm dứt tình trạng san lấp hoặc thu hẹp mặt nước; phục hồi các hồ điều hòa đã suy giảm chức năng; bổ sung công viên mưa, bể điều tiết ngầm và hành lang thoát lũ trong các khu đô thị mới. Cách làm “đô thị thấm nước” cũng đòi hỏi cấu phần hạ tầng xanh -như mái xanh, vỉa hè thấm, bồn cây mưa - được đưa thành chỉ tiêu cứng trong đồ án quy hoạch chi tiết, thay vì phụ thuộc vào “thiện chí” của chủ đầu tư.
Về kỹ thuật nền, cốt cao độ và thoát nước mặt, các đồ án phải bám chặt quy chuẩn hiện hành, xác định mực nước thiết kế theo tần suất mưa lớn, kiểm soát độ dốc và hướng thoát nước ra sông, hồ tiếp nhận. Ở những khu vực đã có nguy cơ ngập lụt lặp lại, thành phố cần áp dụng hạn chế phát triển (downzoning), nắn lại chỉ giới xây dựng để mở không gian chứa nước, đồng thời bổ sung tuyến gom thoát nước mưa độc lập với thoát nước thải để tránh quá tải mạng lưới. Một số lưu vực tiêu trọng điểm như sông Tô Lịch, Lừ, Sét, Kim Ngưu cần được tách nguồn, nạo vét và khơi thông, kết hợp hồ điều hòa phân tán để “giãn dòng” trước khi nước về trạm bơm. Với các khu đô thị mới ở cửa ngõ phía Tây và Bắc, nên bắt buộc mô phỏng thủy lực lưu vực (tính toán, dự báo và đánh giá dòng chảy của nước mưa, nước mặt trong một khu vực đô thị hoặc tự nhiên) ngay từ giai đoạn tiền khả thi, tính đến kịch bản mưa cực đoan trong điều kiện hạ tầng xung quanh chưa hoàn thiện.
Về kiến trúc công trình, bộ tiêu chuẩn bắt buộc nên tập trung vào ba lớp phòng vệ. Lớp thứ nhất là “tránh nước”: nâng cốt nền lối vào, bố trí tầng trệt bán ngập (floodable ground floor) cho công trình công cộng hoặc thương mại ở vùng trũng, hạn chế nhà ở đặt sàn sử dụng chính ở cao trình thấp; đặt phòng kỹ thuật, tủ điện, máy bơm trên cao; bố trí cửa thoát hiểm ngoài phạm vi ngập dự kiến. Lớp thứ hai là “chắn nước”: cửa và đê mềm chống ngập lắp nhanh ở tầng trệt, gioăng chống thấm cho cửa hầm, nắp phễu thu nước và van một chiều ngăn trào ngược; tường chắn thấp kết hợp bồn cây làm “đê xanh” trước nhà. Lớp thứ ba là “thoát nước” và phục hồi nhanh: sàn chịu nước, vật liệu ẩm ướt bền, hệ thống bơm dự phòng và máy phát điện đủ công suất; các hầm gửi xe phải có hố thu, trạm bơm riêng cùng cảm biến mức nước để kích hoạt tự động. Với nhà liền kề, nên khuyến khích giải pháp mô-đun cửa chắn ngập tiêu chuẩn hóa để người dân có thể lắp đặt nhanh khi có cảnh báo mưa lớn.
Còn theo ông Nguyễn Văn Tất, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam, kiến trúc đô thị hiện nay cần chuyển hướng thích ứng với khí hậu và điều đó có nghĩa là mỗi công trình cần được thiết kế để phù hợp hoàn cảnh, thay vì cố gắng chống lại hoàn toàn. Đơn cử như các ngôi nhà ở vùng trũng nên được thiết kế nền cao hơn mặt đường, sử dụng các khoảng trống kỹ thuật để thoát nước, và hạn chế tối đa việc sử dụng vật liệu dễ thấm hút.
Người dân phải nhờ tới xe tải mới có thể vượt qua khu vực ngập sâu tại Hà Nội. Ảnh: Hà Nội
Bài học quản trị sau đợt ngập vừa qua là dữ liệu phải “đi trước”. Hà Nội cần hoàn thành bản đồ nguy cơ ngập chi tiết đến cấp ô phố, cập nhật theo thời gian thực lượng mưa, mực nước, tắc nghẽn cục bộ, để kích hoạt quy trình vận hành bơm, đóng mở cửa cống theo lưu vực. Trên cơ sở đó, thành phố đưa điều kiện “đánh giá tác động ngập lụt” vào mọi dự án mới, công khai kết quả để cộng đồng giám sát. Các khu vực, đặc biệt là Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy, Từ Liêm, cần có kế hoạch hành động ngập lụt riêng, gồm danh mục các điểm úng ngập phải xử lý trong từng năm, kèm nguồn vốn và mốc tiến độ rõ ràng. Về tài chính, có thể huy động trái phiếu đô thị xanh và hợp tác công-tư cho các hạng mục hồ điều hòa, bể ngầm, công viên mưa; với điều kiện hiệu quả giảm ngập được đo đếm bằng chỉ số cụ thể như giảm thời gian tiêu nước, giảm độ sâu ngập trung bình sau mưa lớn.
Không chỉ Hà Nội, các tỉnh phía Bắc vừa chịu ngập nặng cần điều chỉnh cách phát triển đô thị theo địa hình. Ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lạng Sơn, nơi đô thị bám theo lưu vực sông, suối cần bảo vệ hành lang thoát lũ tối thiểu, hạn chế bê tông hóa bãi sông và khuyến khích vật liệu thấm cho hè, sân bãi. Ở Quảng Ninh, các đô thị ven vịnh phải kết hợp giải pháp chống ngập đô thị với chống triều cường, tức là vừa giữ hồ điều hòa nội thị, vừa kiểm soát triều qua cống ngăn mặn ở cửa sông. Những đô thị đang mở rộng nhanh nên áp dụng “ngân sách nước mưa” cho từng dự án: bắt buộc trữ thấm làm chậm một phần lưu lượng ngay trong phạm vi khu đất trước khi xả vào hạ tầng công cộng. Đây là chi phí phải trả để mua lấy an toàn đô thị.
Lộ trình thực thi nên bắt đầu bằng việc dừng ngay các dự án có nguy cơ lấp hồ, thu hẹp sông mương; hoàn nguyên những hồ bị xâm lấn; bổ sung tối thiểu 1–2% diện tích mặt nước mới ở các quận thiếu hồ điều hòa; cải tạo đồng bộ các điểm nghẽn cổ chai dẫn về Yên Sở; thay thế dần bề mặt không thấm bằng vật liệu thấm tại các bãi đỗ, vỉa hè, sân trường. Song song, ban hành hướng dẫn thiết kế chống ngập cho nhà ở dân dụng và nhà cao tầng, đưa vào điều kiện cấp phép xây dựng ở khu vực có nguy cơ. Khi những mảng ghép quy hoạch, hạ tầng, kiến trúc, quản trị cùng được siết chặt, đô thị sẽ không còn bị “đánh úp” mỗi khi mưa lớn ập đến.
Duy Khánh