(NXD) -
Ngày 29/10 tại Hà Nội, Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng (Bộ Xây dựng) đã tổ chức Tọa đàm “Ngập úng đô thị: Hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp”, quy tụ đại diện Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, các Sở Xây dựng địa phương, đơn vị thoát nước và nhiều chuyên gia đầu ngành.
Tọa đàm được kỳ vọng mở ra cách tiếp cận mới, nhằm chuyển từ tư duy ứng phó sự vụ sang thiết kế đô thị chống ngập ngay từ quy hoạch và thể chế.
Ngập úng đô thị không chỉ là bài toán kỹ thuật
Ngập úng đô thị đang trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với quá trình phát triển đô thị tại Việt Nam. Chỉ trong vòng hai thập kỷ, số lượng đô thị trên cả nước đã tăng từ 633 (năm 1998) lên hơn 900 đô thị vào cuối năm 2024, tỷ lệ dân số đô thị đạt hơn 44%, trong đó các đô thị loại đặc biệt, loại I tiếp tục đóng vai trò đầu tàu kinh tế.
Tuy nhiên, hạ tầng thoát nước tại đa số đô thị lớn vẫn được xây dựng theo mô hình cũ, phân tán, không theo lưu vực, thiếu khả năng dự báo, trong khi mưa lớn cực đoan ngày càng xuất hiện với tần suất và cường độ cao hơn do biến đổi khí hậu.
Ngập không chỉ là sự bất tiện dân sinh mà đã trở thành chỉ tiêu đánh giá năng lực quản trị đô thị và nếu không chuyển cách tiếp cận từ “xử lý hậu quả” sang “thiết kế đô thị chống ngập từ gốc”, các đô thị Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ hơn nữa.
Phát biểu tại Tọa đàm, ông Tạ Quang Vinh - Cục trưởng Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng nhấn mạnh năng lực tiêu thoát nước hiện nay chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa quá nhanh, trong khi việc đầu tư vẫn manh mún, thiếu đồng bộ, khiến nhiều địa phương bị động trước mỗi đợt mưa lớn. Ở các đô thị lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, phần lớn hệ thống thoát nước vẫn là hạ tầng cũ từ thời Pháp, đã qua nhiều lần cải tạo nhưng chắp vá, thiếu kết nối, làm giảm hiệu quả hoạt động theo thời gian.
Ông Tạ Quang Vinh - Cục trưởng Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng.
Đến năm 2025, cả nước có 83 nhà máy xử lý nước thải đô thị đang vận hành tại hơn 50 đô thị, với tổng công suất thiết kế khoảng 2,064 triệu m³/ngày nhưng thực tế chỉ đạt khoảng 1,1 triệu m³/ngày. Thực trạng nhiều nhà máy hoạt động dưới công suất chủ yếu do tỷ lệ đấu nối từ các hộ gia đình còn rất thấp và mạng lưới thu gom chưa hoàn chỉnh.
Một nguyên nhân đáng chú ý khác là tại nhiều đô thị, hệ thống thoát nước mưa và nước thải sinh hoạt vẫn dùng chung; khi xảy ra mưa lớn hoặc lũ, lượng nước dồn cùng lúc khiến hệ thống nhanh chóng quá tải, làm gia tăng nguy cơ ngập úng diện rộng.
Tại Tọa đàm, Đại diện Sở Xây dựng Hà Nội nhận định, chỉ khoảng 24,7% diện tích nội đô đã được đầu tư hệ thống thoát nước theo quy hoạch, phần còn lại vẫn phụ thuộc vào hệ thống tự chảy, không đủ năng lực trong bối cảnh mực nước sông Nhuệ, sông Tô Lịch thường xuyên dâng vượt báo động. Biến đổi khí hậu tiếp tục làm tình hình nghiêm trọng hơn: từ tháng 8 - 10/2025, Hà Nội ghi nhận tới ba đợt mưa bão lớn liên tiếp, lượng mưa lên tới 500 - 600 mm/48 giờ, vượt 200% công suất thiết kế hệ thống.
Hệ thống trạm bơm Yên Nghĩa tại Hà Nội vốn là đầu mối tiêu thoát lớn, cũng chưa phát huy đủ công suất do thiếu hồ điều hòa kết nối. Tình trạng này phản ánh một thực tế ngày càng rõ: ngập úng không chỉ là thiếu ống, thiếu máy bơm, mà là hệ quả của một mô hình quản trị phân tán, không có đầu mối chịu trách nhiệm xuyên suốt, thiếu dữ liệu dự báo thống nhất và thiếu tích hợp vào chiến lược đô thị tổng thể.
Tại Hải Phòng, hệ thống thoát nước chỉ đáp ứng được tối đa 40% khu đô thị trung tâm, các khu vực còn lại vẫn phụ thuộc vào cống rãnh tự phát và hạ tầng nông nghiệp. Khi mưa lớn trùng với triều cường, nước không thể tiêu thoát tự nhiên và ngập tăng theo chiều sâu.
Ông Trần Quốc Khánh - Ủy viên Thường trực Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính.
Ông Trần Quốc Khánh - Ủy viên Thường trực Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ nhận định, ngập úng không còn là “sự cố hạ tầng” mà là “vấn đề an ninh đô thị” ảnh hưởng đến đầu tư, sức khỏe cộng đồng và uy tín quốc tế.
Dù nhiều địa phương đã có sự chuẩn bị nhất định, diễn biến thiên tai những năm gần đây cho thấy hạ tầng cấp thoát nước vẫn chưa đủ sức chống chịu, thậm chí dễ bị quá tải trước các đợt mưa lớn bất thường. Ông nhấn mạnh việc chống ngập phải được giải quyết theo lộ trình rõ ràng, từng bước từ những vấn đề cốt lõi nhất, không chỉ đầu tư thêm hạ tầng, mà cần cải cách cả mô hình quản trị, cách quy hoạch và cơ chế vận hành hệ thống thoát nước đô thị.
Giải pháp từ thể chế, tài chính đến công nghệ và năng lực vận hành
Theo phân tích của Viện Khoa học Thủy lợi, điểm nghẽn cốt lõi của thoát nước đô thị tại Việt Nam là cách quy hoạch và quản lý theo địa giới hành chính thay vì theo lưu vực tự nhiên. Tức là một dòng nước mưa chảy qua nhiều quận, nhiều huyện thì lại bị chia nhỏ thành các phần không có sự điều phối tổng hợp.
Trong khi đó, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore đều chuyển sang mô hình “quản trị lưu vực” từ rất sớm, coi nước mưa không phải thứ chỉ cần “chống” mà là tài nguyên cần kiểm soát - trữ lại - tái sử dụng. Nhật Bản xây dựng các bể điều tiết ngầm chống ngập, Singapore tích hợp chống ngập với hành lang sinh thái, cảnh quan đô thị (ABC Water), còn Hàn Quốc áp dụng hệ thống điều hành số theo thời gian thực.
Viện Khoa học Thủy lợi dẫn số liệu cho thấy thiệt hại do mưa ngập có thể vượt 5.000 tỷ đồng mỗi năm, nếu kéo dài đến năm 2050, mức thiệt hại có thể tương đương 12% GDP. Đây là lý do Việt Nam cần chuyển dứt khoát sang mô hình quản trị liên vùng, liên ngành, có một đầu mối duy nhất chịu trách nhiệm về thoát nước theo lưu vực, chứ không chia cắt giữa Sở Xây dựng, Sở NN&MT, doanh nghiệp hạ tầng, khu đô thị tư nhân…
TS Cấn Văn Lực phát biểu tại tọa đàm.
Một số chuyên gia nhận định, phải coi thoát nước là thiết kế đô thị chống ngập từ đầu, chứ không đợi mưa rồi mới tìm cách “chữa cháy”. Chống ngập phải trở thành chỉ tiêu bắt buộc trong quy hoạch đô thị, tương đương với giao thông, đất đai hay an toàn phòng cháy.
Các chuyên gia tại tọa đàm thống nhất rằng Việt Nam cần một lộ trình hành động hai tầng: xử lý ngắn hạn và kiến tạo dài hạn. TS Cấn Văn Lực đề xuất lập Ban ứng phó khẩn cấp về ngập đô thị ở các địa phương lớn, có quyền điều phối tức thời, đồng thời xây dựng Sổ tay hướng dẫn ứng phó thiên tai theo chuẩn quốc tế, để các địa phương không tiếp tục lúng túng sau mỗi trận mưa lớn như năm 2025.
Ở tầng dài hạn, cần thiết lập cơ chế một đầu mối chịu trách nhiệm toàn bộ hệ thống thoát nước đô thị theo lưu vực, thay vì phân tán như hiện nay. Xây dựng khung pháp lý mới cho cấp thoát nước, không chỉ dưới dạng nghị định mà cần tiến tới Luật Cấp thoát nước đô thị, quy định rõ trách nhiệm, quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất toàn quốc.
Về tài chính, cần cho phép triển khai mô hình PPP hoặc Quỹ phòng chống ngập đô thị, chia sẻ rủi ro cho doanh nghiệp tham gia đầu tư và vận hành. Một số ý kiến nhấn mạnh cần áp dụng công nghệ cảnh báo ngập sớm bằng AI, bản đồ ngập động, cảm biến thời gian thực không chỉ dựa vào kinh nghiệm thủ công.
Quảng cảnh Tọa đàm.
GS.TS Đào Xuân Học - nguyên Thứ trưởng Bộ NN&MT lưu ý rằng mưa bão thường chỉ kéo dài 1 - 2 ngày, nhưng tình trạng ngập úng ở nhiều đô thị lại có thể kéo dài tới 5 - 6 ngày sau đó.
Điều này cho thấy điểm nghẽn then chốt không nằm ở lượng mưa, mà ở năng lực tiêu thoát nước của hệ thống đô thị. Ông đề nghị cần ưu tiên đầu tư mạnh hơn cho hệ thống thoát nước, đặc biệt là nâng cấp các trạm bơm và chỉnh trang các sông thoát nước chính như sông Kim Ngưu, sông Tô Lịch để tăng khả năng dẫn, tiêu nước kịp thời.
Một số chuyên gia cho rằng, cần nghiêm cấm san lấp hồ điều hòa, bảo vệ không gian thoát nước tự nhiên, và phát triển giải pháp hạ tầng xanh như công viên trữ nước, mái nhà thấm nước, mặt đường thấm nước. Hệ thống thoát nước phải được thiết kế kết hợp với tiêu thoát nước nông nghiệp và triều cường chứ không xử lý tách rời.
Và trên hết, cần nâng cao năng lực vận hành - điều phối, tránh tình trạng thiết bị có nhưng không kích hoạt đúng thời điểm do thiếu cơ chế liên thông ra quyết định. Chống ngập không thể tiếp tục là cuộc đua “bơm nước sau mưa”, mà phải trở thành chiến lược thiết kế đô thị từ gốc.