(NXD) -
Từ 1 đến 6 tháng 5/1954 một đợt công kích mới bắt đầu, tiêu diệt nốt những vị trí then chốt cuối cùng. 17g30 ngày 7/5/1954 cờ trắng đã kéo lên từ hầm của tướng De Castries.
Năm 1953, Hà Nội vẫn do thực dân Pháp quản lý. Họ lập ra Nhà Thông tin nằm trên phố Tràng Tiền nơi không xa Hồ Gươm và Nhà Hát lớn thành phố là mấy. Ngôi nhà có 2 tầng, tầng dưới để trưng bày tranh ảnh, hiện vật, báo chí, thông báo cần tuyên truyền, tầng trên là nơi hội họp và chiếu phim, Nhà Thông tin phố Tràng Tiền, “công cụ tuyên truyền nhằm giáo huấn dân bản xứ”. Những hôm chiếu phim, có 2 ông cảnh binh người Pháp, mặc quần soọc trắng, áo cộc tay cũng màu trắng, đứng canh ở chân cầu thang. Xem phim không mất tiền, nên cũng có nhiều người muốn đến. Hai ông cảnh binh ưu tiên mời người cao tuổi và các em nhỏ lên trước, chỉ khi còn chỗ mới cho thanh niên lên xem. Những em nhỏ lên cầu thang, không em nào là không bị véo má hoặc bị vỗ mông trong “tình thân ái” của 2 ông cảnh binh già. Thời gian này họ tuyên truyền cho quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ nhiều lắm, vừa chiếu phim thời sự, vừa phát truyền đơn, pano quảng cáo.
Đại tướng 4 sao Navarre, Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, Trung tướng 3 sao Cogny phụ trách chiến trường Bắc Bộ đã quyết định chiếm lĩnh Điện Biên Phủ. Xây dựng một tập đoàn cứ điểm hùng mạnh ở đây để ngăn chặn Việt Minh không tràn sang Thượng Lào, để kiểm soát toàn bộ vùng Tây Bắc, để làm bàn đạp phối hợp 2 mũi từ đồng bằng Bắc Bộ tiến lên, từ phía Tây đánh sang Việt Bắc để phá chiến khu của Việt Minh, nhằm cắt đứt liên lạc của Việt Minh với Liên Xô, Trung Quốc. Tướng Navarre muốn biến Điện Biên Phủ thành cái bẫy khổng lồ để tiêu diệt Việt Minh nhằm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Navarre đã thách đấu với tướng Giáp tại mặt trận này. Ngày 20/11/1953 Pháp nhẩy dù chiếm Điện Biên Phủ, mới đầu có 6 tiểu đoàn dù và giao cho Đại tá De Castrie làm Tư lệnh. Sau một thời gian ngắn số quân Pháp đã lên đến trên 16.000 người với trang bị súng ống đạn dược đầy đủ các loại hiện đại: đại bác, súng cối, súng tiểu liên, đại liên, xe tăng, xe thiết giáp, máy bay. Tập đoàn được phân chia thành 49 cứ điểm hùng mạnh. Trung tá Charles Piroth chỉ huy pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ đã dõng dạc tuyên bố “Bất kể khẩu pháo nào của Việt Minh nhả tối đa đến viên đạn thứ ba tôi sẽ làm cho nó câm họng”. Để động viên Đại tá Tư lệnh, De Castries đã được phong hàm Thiếu tướng.
Không có cấp trên nào gắn lon cho ông, máy bay đã thả chiếc dù đỏ trong đó có quân hàm, quân hiệu, quân phục cấp tướng cùng những chai rượu vang Bordeaux và đồ nhắm để mừng cho De Castries lên chức Tướng.
Đêm 13/3/1954 một cuộc tấn công dũng mãnh được những làn đạn hỏa lực pháo dày đặc đã phá tan cứ điểm Him Lam, tiếp đến là đồi Độc Lập bị hạ. Cuộc phản công thứ 2 bắt đầu từ 30/3 đến giữa tháng 4, Việt Minh đã tiêu diệt nhiều cứ điểm quan trọng khác C1,D1,E1... Các khẩu pháo của Việt Minh không bố trí theo cụm mà đặt rải rác trên sườn núi quanh lòng chảo Điện Biên, được cất giấu trong hầm có nắp đậy ngụy trang chỉ để hở nòng, nên máy bay không thể phát hiện được. Khi pháo tấn công dồn dập, phá vỡ nhiều cứ điểm của Pháp, trung tá Charles Piroth không thể phát hiện được vị trí của pháo Việt Minh. Sau một đêm quan sát tìm hiểu, ông bất lực, bế tắc và để bảo toàn danh dự trước lời hứa với cấp trên, ông đã tự sát bằng một quả lựu đạn. Quân Pháp ở trong tình trạng rất bi thảm, muốn mở một đường máu để thoát ra khỏi lòng chảo, nhưng không thành. Cả ngàn chiếc dù tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men được máy bay thả xuống mặt trận, nhưng có tới một nửa rơi vào tay Việt Minh. Không thể tính được chính xác Việt Minh đã đào được mấy trăm km giao thông hào, nó như con bạch tuộc xiết chặt vòng vây để tiêu diệt quân Pháp. Trận chiến đấu ác liệt, kéo dài hơn một tháng, hy sinh tổn thất nhiều nhất cho cả hai bên là trên đồi A1.
Hai bên giằng co, giành giật từng mét đất, đánh giáp lá cà bằng báng súng và lưỡi lê. Cũng trong tháng Tư, Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Foster Mac Govern đã tính đến một cuộc can thiệp ồ ạt của không quân Mỹ nhằm đập tan hệ thống giao thông vận tài của Việt Minh tại mặt trận. Ông ta còn đề nghị sử dụng 2 quả bom nguyên tử để cứu vãn Điện Biên Phủ. Dự án này vấp phải sự chống đối của Quốc hội Mỹ, của Bộ Ngoại giao Anh và cả của Bộ Ngoại giao Pháp, vì bom nguyên tử không biết phân biệt đâu là người Pháp, đâu là người của Việt Minh.
Từ 1 đến 6 tháng 5/1954 một đợt công kích mới bắt đầu, tiêu diệt nốt những vị trí then chốt cuối cùng. 17g30 ngày 7/5 cờ trắng đã kéo lên từ hầm của tướng De Castries.
Phụ nữ Pháp trên chiến trường Điện Biên rất hiếm. Người đầu tiên đến cùng tướng De Castries là cô thư ký riêng của ông, nhưng đã được sơ tán về Hà Nội từ đầu tháng 3/1954. Người nữ tù binh duy nhất là Geneviève de Gallard, nữ y tá khoảng 30 tuổi, nguyên là tiếp viên hàng không đến từ Paris. Nhiệm vụ của Geneviève de Gallard là tải thương, đưa thương binh từ mặt trận về Hà Nội bằng máy bay. Đến ngày 31/3/1954 Geneviève de Gallard không về Hà Nội được vì sân bay Mường Thanh đã bị đánh phá, máy bay không cất cánh được. Gallard đã viết thư lên cụ Hồ xin được ân xá. Với lòng bao dung của cụ Hồ, Gallard cùng một số nhân vật khác được ân xá và trở về Hà Nội bằng máy bay. Trở về Pháp Geneviève de Gallard sống cuộc đời bình thường, viết hồi ký và rất có cảm tình với Việt Nam, rất biết ơn cụ Hồ.
Toàn thắng Điện Biên Phủ, tiếp đến là Hội nghị Genève 21/7/1954, kết thúc thắng lợi 9 năm chống Pháp. Dân tộc Việt Nam lại tiếp tục kháng chiến chống Mỹ, phải chờ đến Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội tháng 12/1972 mới dẫn đến Hiệp định Paris 27/1/1973, chấm dứt sự can thiệp quân sự của Mỹ, “Mỹ cút rồi thì Ngụy cũng nhào”, đó là mùa xuân năm 1975, ngày 30/4/1975. Đất nước vẹn toàn một dải, non sông gấm vóc Việt Nam về một mối.